• GIỚI THIỆU CHUNG 

    a. Vị trí địa lý:

    Thành phố Uông Bí là cửa ngõ phía Tây tỉnh Quảng Ninh. Địa giới hành chính:

    Phía Bắc giáp huyện Sơn Động (tỉnh Bắc Giang)

    Phía Nam giáp huyện Thủy Nguyên (thành phố Hải Phòng)

    Phía Đông giáp huyện Hoành Bồ và thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh)

    Phía Tây giáp huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh)

    Tọa độ từ 20o 58’ đến 21o 09’ vĩ độ bắc và từ 106o 41’ đến 106o 52’ kinh độ đông.

    Thành phố có 11 đơn vị hành chính gồm 09 phường và 02 xã. Tổng diện tích tự nhiên

    của thành phố là 25.630,77 ha.

  • b. Địa hình, địa mạo:

    Uông Bí nằm trong dải cánh cung Đông Triều - Móng Cái, chạy dài theo hướng

    Tây - Đông; kiến tạo địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam. Phía Bắc cao nhất là núi Yên Tử với độ cao 1.068m, núi Bảo Đài cao 875m, phía Nam thấp nhất là vùng bãi bồi, trũng ngập nước ven sông Đá Bạc. Thành phố Uông Bí với 2/3 diện tích là đồi núi dốc nghiêng từ phía Bắc xuống phía Nam và được phân tách thành 3 vùng rõ rệt: Vùng cao: chiếm 65,04% tổng diện tích tự nhiên của Thành phố, bao gồm các xã Thượng Yên Công, phường Vàng Danh và phần diện tích nằm ở phía Bắc Quốc lộ 18A thuộc các phường Nam Khê, Bắc Sơn, Thanh Sơn, Quang Trung, Trưng Vương , Phương Đông; Vùng thung lũng: nằm giữa dãy núi cao phía Bắc và dãy núi thấp phía Nam có địa hình thấp, chạy dọc theo đường 18B từ Năm Mẫu đến Vành Danh thuộc xã Thượng Yên Công và phường Vàng Danh có diện tích rất nhỏ, chiếm 1,2% diện tích tự nhiên thành phố; Vùng Thấp: bao gồm các xã, phường nằm ở phía Nam Quốc lộ 18A như : phường Phương Nam, Phương Đông, Nam Khê, phường Quang Trung, Trưng Vương, xã Điền Công; vùng này địa hình bằng phẳng, chủ yếu là các cánh đồng phù sa ven sông có độ dốc cấp I (0÷80) nằm xen giữa các kênh rạch, ruộng canh tác ở độ cao từ 1÷5m so với mặt nước biển với diện tích 7.700 ha chiếm 26,90% diện tích tự nhiên Thành phố.



  • c .Khí hậu

    Uông Bí có chế độ khí hậu đa dạng, vừa mang tính chất miền núi vừa mang tính

    chất miền duyên hải. Nhiệt độ trung bình trong năm 22,20C. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 28 -300C. Mùa đông nhiệt độ trung bình từ 17-200. Tổng lượng mưa trung bình năm là 1.600mm, cao nhất là 2.200mm. Độ ẩm trung bình năm là 81%, cao nhất 89,3%, thấp nhất 50,8%.

    d. Thủy văn:

    Thành phố chịu ảnh hưởng trực tiếp chế độ nhật triều vịnh Bắc Bộ, biên độ giao

    động thủy triều trung bình 0,6m. Thành phố có 3 con sông chảy qua là sông Đá Bạc, Sông Uông và Sông Sinh. Hệ thống sông suối phần lớn là sông nhỏ, diện tích lưu vực hẹp, nguồn nước và lưu lượng không đáng kể.

    e. Đơn vị hành chính:

    Thành phố Uông Bí có 11 đơn vị hành chính gồm 9 phường: Nam Khê, Trưng Vương, Quang Trung, Bắc Sơn, Vàng Danh, Thanh Sơn, Yên Thanh, Phương Nam, Phương Đông và 2 xã: Điền Công, Thượng Yên CÔng. Với tổng số thôn, khu là: 100.

  • Bộ máy quản lý nhà nước từ thành phố đến xã, phường thường xuyên được củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là về năng lực tổ chức, quản lý, điều hành. Các chỉ tiêu chủ yếu của thành phố hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch được giao.

    f. Diện tích tự nhiên

    Tổng diện tích đất tự nhiên là 25.630,77 ha. Trong đó đất nội thành là 17.623,5 ha (có 2650,83 ha đất XD đô thị), đất ngoại thị là 8.007,27 ha. Bao gồm:

    - Đất ở đô thị: 737,42ha;

    - Đất ở nông thôn: 51,61 ha;

    - Đất chuyên dùng: 2.831,27 ha;

    - Đất tôn giáo, tín ngưỡng: 21,19 ha;

    - Đất nghĩa địa, nghĩa trang: 57,18 ha;

    - Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng: 2.069,79 ha;

    - Đất nông nghiệp: 17.620,1 ha;

    - Đất chưa sử dụng: 2.242,21 ha.

  • g.  Dân số

    Quy mô dân số: Quy mô dân số của thành phố Uông Bí đến 31/12/2012 là 168.129  người (bao gồm cả dân số thường trú và dân số quy đổi). Trong đó dân số nội thành là 160.590 người, chiếm 95,5% tổng dân số toàn thành phố; dân số ngoại thành là 7.539 người, chiếm 4,5%. Tổng số dân số thường trú thực tế là 114.302 người. Dân số quy đổi là 53.827 người.

  • Diện tích, dân số thực tế thường trú thành phố Uông Bí phân theo đơn vị hành chính năm 2013



  • Cơ cấu dân số thay đổi theo hướng tỷ lệ dân số nội thành ngày một tăng, tỷ lệ dân số ngoại thành giảm dần.

    Mức tăng dân số năm 2012 là 1,9% (trong đó tăng tự nhiên là 1,13%, tăng cơ học là 0,77%).

    Cơ cấu dân số thành phố qua các năm (từ 2009 -2012) Đvt: người


    Thành phố Uông Bí có lợi thế là trung tâm công nghiệp, du lịch, y tế và đào tạo phía Tây của tỉnh. Trên địa bàn thành phố lực lượng lao động kỹ thuật được đào tạo cơ bản trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật.

  • i. Về tình hình phát triển kinh tế:

    * Về cơ cấu kinh tế:

    Cơ cấu kinh tế của thành phố trong những năm qua chuyển dịch nhanh và mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ; giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp. Theo giá trị sản xuất cơ cấu kinh tế thành phố: Công nghiệp, xây dựng 55,9%; thương mại, dịch vụ 38,7%; nông, lâm, thủy sản 5,4%.

                      Giá trị sản xuất toàn thành phố 2010-2012 (ĐVT: triệu đồng)





  • Giá trị tăng thêm (GDP)
    (ĐVT: Triệu đồng)





  •  



  • Tỷ trọng GDP các ngành trong cơ cấu kinh tế thành phố từ 2010-2012



     


  • * Về tốc độ tăng trưởng kinh tế

    Trong những năm qua, thành phố Uông Bí đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng: 10%; theo cơ cấu kinh tế: Dịch vụ tăng 12,4%; Công nghiệp, xây dựng tăng 9,7%; Nông nghiệp tăng 2,1%.


  •                                                                                                           

    DU LỊCH UÔNG BÍ

    A/ Tài nguyên du lịch nhân văn

    Các di tích lịch sử văn hóa

    * Khu Di tích lịch sử văn hóa Yên Tử

    Hơn 700 năm qua, danh sơn Yên Tử gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp phi thường của Đức Hoàng Đế anh hùng Trần Nhân Tông. Sau hai lần lãnh đạo nhân dân Đại Việt kháng chiến chống giặc Nguyên Mông thắng lợi năm 1285 và năm 1288, Ngài đã truyền ngôi cho con, từ bỏ lầu son điện ngọc xuất gia về Yên Tử tu hành với pháp danh Hương Vân Đại Đầu Đà, đạo hiệu Trúc Lâm Đại Sĩ và đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành đạo Phật của quốc gia Đại Việt và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ngày nay. 

  • Đến với Yên Tử, du khách được tìm hiểu lịch sử hệ thống di tích gồm 10 ngôi chùa, hàng trăm Am tháp, hàng ngàn di vật, cổ vật quý có giá trị lịch sử cao gắn liền với sự tồn tại và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Dấu tích thời Trần đặc sắc nhất là lăng Quy Đức và tháp Huệ Quang, trong tháp có tượng đá và xá lị Trần Nhân Tông, quanh có tường xây bằng gạch và lợp ngói mũi hài kép thời Trần. Khu di tích Yên Tử là kết tinh, hội tụ của nền văn hoá dân tộc với kiến trúc, hoa văn trang trí và các mảng chạm khắc mang đậm dấu ấn văn hoá của các thời đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Từ chùa Giải Oan lên đến Chùa Đồng, du khách được chiêm ngưỡng đường tùng cổ kính với hơn 200 cây tùng 700 tuổi; bia Phật, tượng An Kỳ Sinh thiên tạo, chùa Đồng cao 1.068m so với mặt nước biển; Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông (được khánh thành ngày 3/12/2013 tức ngày 01 tháng 11 năm Quý Tỵ); thác Ngự Dội, nền am Hoa, am Dược, am Thiền Định... gắn liền với những huyền thoại về vua Trần Nhân Tông.

    Khu di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Yên Tử được xếp hạng bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia, đến năm 2012 được Nhà nước công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.


  • * Chùa Ba Vàng

    Chùa Ba Vàng nằm trên địa bàn phường Quang Trung, cách Trung tâm Thành phố gần 2km, nằm cạnh khu du lịch sinh thái Lựng Xanh, với hệ thống giao thông đường bộ mới được đầu tư, rất thuận tiện cho du khách di chuyển trong tuyến du lịch Yên Tử - Hồ Yên Trung - Hồ Công Viên - Ba Vàng - Lựng Xanh.

    Đến với khu di tích, danh thắng chùa Ba Vàng, du khách sẽ được thăm các công trình kiến trúc lớn, các đồi thông bao quanh. Tại đây, du khách có thể nhìn bao quát toàn bộ trung tâm Thành phố, hướng ra xa là sông Bạch Đằng. Chùa Ba Vàng còn có tên là Bảo Quang Tự, được xây dựng vào năm Ất Dậu, triều vua Lê Dụ Tông tức năm 1676. Chùa nằm ở độ cao 340m, so với mặt nước biển, trên một vị thế hết sức đẹp của thành phố Uông Bí. Tại đây, du khách có thể nhìn bao quát toàn bộ trung tâm Thành phố, hướng ra xa là sông Bạch Đằng. Chùa Ba Vàng được xếp hạng di tích cấp Tỉnh năm 2007.

    Để phát huy giá trị di tích, chùa đã và đang được đầu tư xây dựng, tôn tạo, nâng cấp nhiều hạng mục, công trình kiến trúc với quy mô lớn. Năm 2014, Chùa Ba Vàng được tổ chức kỷ lục Việt Nam ghi nhận là “Ngôi chùa có Tòa chính điện trên núi lớn nhất Đông Dương”.



  • * Đền, Chùa Hang Son

    Cách trung tâm Thành phố 6 km về phía tây nam, cách quốc lộ 18A, quốc lộ 10 gần 2 km, Đền Hang Son thờ Thánh Hang Son – Bát Hải Đại Vương. Tên Hang Son còn mang dấu ấn của Trần Hưng Đạo khi ngài đưa quân về đây mai phục, tích trữ lương thảo chuẩn bị cho trận đánh quân Nguyên Mông trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Đến thế kỷ XVI, nhân dân quanh vùng đã góp công, của dựng thêm Phật điện và từ đó đền Son mang tên Chùa Son là sự kết hợp Phật giáo với tín ngưỡng của nhân dân.

    Đây là động do thiên nhiên tạo nên, nằm cạnh một nhánh của sông Bạch Đằng, gồm một dãy núi cao, đủ các hình dáng. Nơi đây sơn thuỷ hữu tình, cảnh đẹp nên thơ, ngày xưa từng là nơi du ngoạn của các vua, quan các triều đại phong kiến Việt Nam. Phía trong hang tạo hình vòm và thắt lại ở phía trên trông giống như một gác chuông, phía bên trái của hang có một vòm nhỏ được gọi là Vọng Cung. Phía trong cùng của Vọng Cung có một vòm nhỏ được gọi là Cung cấm, cạnh đó có một lối nhỏ đi xuống phía dưới được gọi là Cửa xuống địa ngục và một lối nhỏ đi lên và thông trên đỉnh núi gọi là Cửa lên thiên đường.

    Di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Hang Son được UBND tỉnh Quảng Ninh ra quyết định bảo vệ năm 1999.



  • * Đình Đền Công

    Đình Đền Công trên địa bàn xã Điền Công, cách trung tâm Thành phố 4 km về phía nam, bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Trên diện tích đất hơn 4000 m2 Đình Đền Công gồm một ngôi đình thờ chính và hai nhà tả vu, hữu vu.

    Đình Đền Công được làm trên gò đất nơi phát hỏa hiệu lệnh của chiến trận Bạch Đằng, là nơi thờ Thành hoàng của làng Điền Công gồm các vị thần: Trần Hưng Đạo là Thượng đẳng thần và bốn vị Tướng quân đã giúp Trần Hưng Đạo làm nên đại thắng năm 1288 là: Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải Tôn Thần, Phi Bồng Tướng quân và Bạch Thạch Tướng quân.

    Đình lưu giữ nhiều hiện vật quý: Bài vị, kiếm gỗ, kiệu long đình, đại tự, câu đối, hương án... đặc biệt là 06 sắc phong của các triều vua thời Nguyễn; lưu giữ được Văn bia, hệ thống kiến trúc thời Nguyễn.

    Năm 2000, Đình Đền Công được xếp hạng bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia và đến năm 2012, được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt (nằm trong cụm di tích chiến thắng Bạch Đằng).



  • * Chùa Long Khánh

    Là di tích lịch sử thuộc xã Điền Công, Chùa Long Khánh nằm ngay cạnh Đình Đền Công. Chùa gồm Tòa Tam Bảo, đền Mẫu, nhà thờ Tổ, nhà khách, nhà sinh hoạt của tăng ni phật tử với tổng diện tích hơn 400 m2.

    * Cụm di tích đình - chùa - nghè Lạc Thanh

    Giáp trung tâm Thành phố, đình Lạc Thanh nằm giữa khu Lạc Thanh, phường Yên Thanh, đây là ngôi đình cổ thuộc tổng Bí Giàng xưa còn lại cho đến ngày nay, được xây dựng vào thời Hậu Lê. Đình thờ 12 vị Thành hoàng, trong đó có hai vị là Cao Sơn và Quý Minh được thờ tại Đình, 10 vị được thờ tại mười nơi khác nhau, mỗi vị trông coi, cai quản một xứ, nhân dân gọi đó là Nghè.

  • Tại khu Lạc Thanh, phường Yên Thanh có 7 vị Thành hoàng được thờ ở 7 ngôi nghè: Nghè Cụ thờ Phạm Năng Nhẫn (vị quan Đại thần triều Hậu Lê); Nghè Thất Tích thờ Hiển Tích đại thần (thần Tích xưa); Nghè Trung Lang thờ Lương Trung đại thần (thần Lương thiện, trung hiếu); Nghè Lung Cung thờ Long Cung đại thần (thần Thủy Cung); Nghè Cửa Thờ thờ Đống Hiếu đại thần (thần gò, đống tốt); Nghè Đống Sếu thờ Bản Thổ đại thần (thần Thổ Công bản xã); Nghè Cây đa thờ Linh Thung đại thần (thần Tôn kính). Tại khu 5, phường Quang Trung có 2 vị Thành hoàng được thờ ở 2 ngôi nghè: Nghè Bà Chúa thờ Thái Trưởng công chúa tôn thần (Công chúa con vua); Khe Nghè thờ Ma Tuyền đại thần (thần Thác nước). Tại khu vực Công ty than Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công có Nghè Gốc Lim thờ 1 vị Thành hoàng là Côn Hiếu đại thần (thần Núi tốt).

    Ngoài các nghè: Nghè Cụ, Trung Lang, Lung Cung, Cửa Thờ, Bà Chúa, các nghè còn lại không còn di tích gốc, di vật, cổ vật gì.

    Cụm di tích đình, nghè, chùa Lạc Thanh xây dựng để tưởng nhớ công lao của các vị Thành hoàng đã có công với làng xã và là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Di tích đình, nghè, chùa Lạc Thanh được UBND tỉnh Quảng Ninh xếp hạng cụm di tích lịch sử cấp Tỉnh năm 2011.

  • * Chùa Phổ Am

    Chùa Phổ Am nằm trên địa bàn phường Bắc Sơn, cách trung tâm Thành phố 2 km. Chùa được xây dựng ở chân núi Duật Vân vào thời Lê Dụ Tông, nằm trên mảnh đất cao, thoáng mát, sáng sủa mang yếu tố dương. Xa xa trước cửa Chùa có dòng sông Uông uốn lượn tạo ra yếu tố âm. Âm dương kết hợp tạo ra muôn loài, do vậy trong chùa cây cối quanh năm tươi tốt, khắc thêm cho Chùa cảnh linh thiêng, huyền bí làm tôn kính nơi cửa Phật.

    Theo truyền thuyết kể lại: Vua Trần Nhân Tông lên tu ở núi Yên Tử, Ngài đã từng đi qua đây, thấy nơi đây cảnh rất đẹp, núi sông hài hòa ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa, Ngài đã quyết định đặt tên núi đó là núi Duật Vân.

    Chùa đã và đang được xây dựng với các hạng mục công trình: Tòa chính điện (300 m2); nhà thờ Tổ (300 m2); nhà thờ Mẫu (300 m2); nhà khách (200 m2); Lầu Cô; Lầu Cậu… Chùa là nơi Thờ Phật đồng thời là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân quanh vùng



  • * Chùa Bí Trung (chùa Long Hoa)

    Chùa nằm trong khuôn viên của gia đình ông Vũ Đức Hoan, trên địa bàn phường Phương Đông, cách trung tâm Thành phố gần 3 km, cách UBND phường 1km. Chùa quay hướng Tây, xây một gian dọc, mái lợp ngói tây kiến trúc đơn giản với diện tích 14,7 m2.

    Chùa là nơi thờ Phật và là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân trong vùng

    * Chùa Quốc Dưỡng

    Chùa nằm trên địa bàn phường Phương Đông, là di tích lịch sử văn hóa nhưng hiện nay chỉ còn lại phế tích, chưa xác định được giá trị của di tích

    * Nhà thờ họ Đoàn

    Cách trung tâm Thành phố 6 km, nằm trên địa bàn xã Điền Công là Nhà thờ  họ Đoàn. Căn cứ theo lời kể của trưởng dòng họ Đoàn, Nhà thờ họ Đoàn được xây dựng khoảng đầu thế kỷ XIX, qua hai lần sửa chữa và xây mới, năm 2007 Nhà thờ được xây dựng như hiện nay. Nhà thờ có kiến trúc chữ nhị gồm 3 gian, tiền tế và hậu cung.

    Nhà thờ họ Đoàn thờ Đoàn Phúc Vinh và con cháu của dòng họ Đoàn, đây là dòng họ đã đến khai hoang đất Điền Công từ rất sớm và được coi là Cụ Tổ khai sinh nơi đây.

    Nhà thờ họ Đoàn có giá trị lịch sử, văn hóa thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của người dân Việt Nam

  • * Nhà thờ họ Vũ Đức

    Nhà thờ thuộc Thôn 2, xã Điền Công, cách trung tâm Thành phố 6 km. Nhà thờ họ Vũ Đức có kiến trúc hình chức Đinh với diện tích 50 m2 gồm 3 gian nhà lợp mái ngói. Nhà thờ họ thờ Tổ và con cháu của dòng họ Vũ Đức, một dòng họ lớn của xã Điền Công

    * Miếu Vọng

    Thuộc địa bàn phường Vàng Danh, Miếu Vọng cách trung tâm Thành phố 11 km. Miếu được xây dựng từ rất lâu đời, đến năm 1992 nhân dân xây dựng lại để thuận lợi cho việc thờ cúng.

    Miếu quay hướng đông, kiến trúc kiểu chữ nhất một gian, mái lợp ngói tây với tổng diện tích là 38,5 m2, Miếu thờ Chúa Sơn Lâm

    * Đền Tứ Phủ

    Cách trung tâm Thành phố 19 km, Đền nằm trên đồi thuộc địa bàn phường Vàng Danh. Đền xây dựng từ thời Nguyễn và đến năm 1994 được xây dựng lại với diện tích 92,40 m2. Đền có 2 gian với kiến trúc đơn giản, quy mô nhỏ. Đền thờ Phật, Tam tòa thánh mẫu và Đức ông.

  • * Nhà máy điện Uông Bí

    Thuộc địa bàn phường Quang trung, Nhà máy điện Uông Bí cách trung tâm Thành phố 4 km. Đây là di tích cách mạng, là một trong những trọng điểm đánh phá của Mỹ, được xây dựng vào năm 1961, từng là nhà máy điện lớn nhất Đông Nam Á. Hiện nay, nhà máy điện đã được sửa chữa, nâng cấp và mở rộng với tổng diện tích 407.665 m2.

    Ngày 02/02/1965 (ngày mồng một tết Ất Dậu), cán bộ công nhân nhà máy và nhân dân Uông Bí được vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. 

    Trong suốt hơn 50 năm xây dựng và phát triển, đã có 4 thế hệ kề vai sát cánh xây dựng Nhà máy: Thế hệ kháng chiến chống Pháp (1959 - 1964); Thế hệ chống Mỹ cứu nước (1965 - 1975); Thế hệ vượt khó thời bao cấp (1976 - 1986); Thế hệ đổi mới và hội nhập quốc tế (1987 đến nay). Nhà máy đã được Đảng, Chính phủ và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Danh hiệu Anh hùng lao động năm 1973; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1998; Huân chương  kháng chiến hạng Nhì năm 1973; Huân chương lao động hạng Nhất năm 1973 và 1975;  Huân chương độc lập hạng Nhì năm 1996 và 2006… 

  • * Đền Lăng

    Đền Lăng thuộc địa bàn phường Quang Trung, cách trung tâm Thành phố hơn 4 km. Đền được xây dựng từ thời Nguyễn, đã tu sửa nhiều lần, lần gần nhất là năm 1993. Đền có kiến trúc hình chữ đinh với quy mô nhỏ 33,9 m2.

    Đền thờ Công chúa Mạc Phúc Hoa (con gái vua Mạc), thờ Quốc mẫu vua bà (bà hàng nước ở Bến Rừng – Quảng Yên), thờ Phật, tam tòa thánh mẫu và Trần triều.

    * Đền Vua Bà

    Cách trung tâm Thành phố 4 km, Đền Vua Bà nằm cuối bãi than Nhà máy điện Uông Bí, sát sông Uông, trên địa bàn phường Quang Trung.

    Đền được xây dựng từ thời Lê, đến năm 1992 được xây dựng lại với kiến trúc đơn giản gồm một gian nhỏ, trước Đền có lầu cô, lầu cậu với tổng diện tích 16m2. Đền thờ Quốc mẫu vua bà, thờ Phật, tam tòa thánh mẫu và Trần triều.

  • * Chùa Lu

    Nằm trên địa bàn phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí là một ngôi chùa Cổ được xây dựng từ thời Lý, nhưng do chiến tranh tàn phá nay chùa còn có 3 công trình xây dựng là Am chính (xây dựng kiểu chữ T vào thời Nguyễn, nhà Mẫu (được xây dựng 1995) và lầu cô, lầu cậu với diện tích hơn 90 m2. Chùa được nhân dân cơi nới làm nơi thờ phật nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân địa phương.

    * Đình Năm Mẫu

         Đình Năm Mẫu thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí. Đình được xây dựng từ thời Lê với diện tích 25,95 m2 và đến nay đã được tu sửa nhiều lần. Đình Năm Mẫu là nơi sinh hoạt văn hóa làng xã của nhân dân địa phương. Đình thờ thành hoàng của làng, thờ 4 vị thánh (một vị chính là thành hoàng). Đình vẫn còn tốt tuy nhiên các công trình xây dựng khác như sân vườn chưa có, cảnh quan xung quanh còn hoang sơ.

  • * Miếu Chúa

         Di tích thuộc địa bàn xã Thượng Yên Công, cách đình Năm Mẫu khoảng 500,nằm bên trái cách đường liên xã một thửa ruộng với diện tích 4,75 m2. Miếu được xây dựng từ đời Trần qua nhiều lần trùng tu, tu sửa gần nhất đây là 2012 nên thực trạng Miếu còn tương đối tốt. Miếu Chúa thờ Chúa Thượng Ngàn, chúa Năm Phương và  một trong năm bà cung nữ mất tại nơi đây của vua Trần Nhân Tông.

    * Hang núi Xếp Bằng - Hang núi Hổ

         Cách trung tâm thành phố Uông Bí 9 km về phía Tây Nam thuộc địa bàn phường Phương Nam, Hang núi Xếp Bằng - Hang núi Hổ do thiên nhiên tạo nên. Đây là nơi sơ tán an toàn của Bệnh viện Uông Bí trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong những năm 1968 - 1972. Đến nay toàn bộ hệ thống hang động vẫn còn nguyên vẹn tuy nhiên mọi dấu tích về di tích không còn nhiều, cảnh vật hoang sơ, ít người lui tới

    * Hang Hải Quân

    Hang Hải Quân thuộc địa bàn xã Phương Nam, thành phố Uông Bí là nơi đóng quân, chế tạo vũ khí của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiện nay khu đất này thuộc đất của Bộ quốc phòng quản lý, các thiết bị máy móc đã được chuyển đi nơi khác nay chỉ còn lại một số di vật (đường ray).

  • * Nhờ thờ họ Thất Tinh

    Nằm cách trung tâm thành phố 5km về phía thành phố Hạ Long nhà thờ đạo nằm ngay phía bên trái sát đường quốc lộ 18A, thuộc tổ 11 khu 2 phường Trưng Vương, thành phố Uông Bí. Được xây dựng năm 1934, cho đến nay đã qua nhiều lần sửa chữa, Nhà thờ họ thất Tinh quay hướng Tây, kiến trúc đơn giản gồm 6 gian chạy dọc với 2 hàng cột gỗ, tổng diện tích là 960 m2. Việc hành lễ của bà con giáo dân được duy trì thường xuyên vào chủ nhật hàng tuần

    * Đài Kỷ niệm Bác Hồ

    Di tích nằm bên trái đường cách Ủy ban nhân dân phường Trưng Vương 300m, hướng về phía trung tâm Thành phố Uông Bí. Đươc xây dựng năm 1990 tại nơi ghi dấu sự kiện Bác Hồ về thăm, nói chuyện với Đảng bộ, nhân dân các dân tộc thành phố Uông Bí năm 1965. Với tổng diện tích của khu vực đài kỷ niệm là 420m2, được xây dựng theo kiểu kiến trúc tượng đài, gồm một bệ gạch tròn có bậc lên xuống, trên bệ  xây 1 đài kỷ niệm gắn gạch men, mặt chính diện gắn phù điêu ảnh Bác bằng xi măng trắng. Hàng năm vào mỗi dịp lễ tết, ngày quốc khánh 2/9 toàn bộ các cán bộ công nhân viên nhà nước và đồng bào nhân dân đến làm lễ viếng dâng hoa và thắp hương tưởng nhớ về Bác.

  • B/ Các Lễ hội truyền thống hàng năm

    * Lễ hội Yên Tử

    Được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng hàng năm, Hội xuân Yên Tử là một trong những lễ hội lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam kéo dài trong 3 tháng, mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách thập phương về đây hành hương lễ Phật, chiêm bái cõi tâm linh Tam Tổ Trúc Lâm và thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ của danh sơn Yên Tử. Điểm nổi bật của Lễ hội là các hoạt động văn hóa truyền thống (múa rồng lân, biểu diễn võ thuật, biểu diễn âm nhạc truyền thống) và các trò chơi dân gian (ném còn, đẩy gậy...).

    * Lễ hội chùa Ba Vàng

    Hội chùa Ba Vàng bắt đầu diễn ra từ ngày 08 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội bao gồm phần lễ dâng hương, cầu nguyện quốc thái dân an và phần hội với màn múa rồng lân và các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian. Chùa thường xuyên tổ chức các sinh hoạt văn hóa, các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của đông đảo nhân dân. 

  • * Lễ hội Đền, chùa Hang Son

    Lễ khai hội Đền, chùa Hang Son được tổ chức vào ngày 06 tháng giêng hàng năm. Với chương trình biểu diễn nghệ thuật trong Lễ khai hội với phần hát múa "Diễn tích chùa Hang Son" có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về lịch sử chùa Hang Son, truyền thống dựng nước và giữ nước của Dân tộc.

    * Lễ hội Đình - chùa - nghè Lạc Thanh

    Năm 2012, Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức phục dựng lễ hội Đình Lạc Thanh (bị gián đoạn từ năm 1945) và được duy trì tổ chức hàng năm.

    Lễ hội chính của Đình được diễn ra vào ngày 14, 15 tháng 3 âm lịch hàng năm với nhiều nghi lễ, nghi thức rước Thành hoàng từ các nghè về Đình dự hội, đây là lễ hội có nhiều đoàn rước nhất trong các lễ hội tín ngưỡng dân gian ở Quảng Ninh. Với các nghi lễ: Lễ nhập tịch, lễ an vị Thành hoàng tại Đình, lễ tế Thành hoàng, nghi thức giao điệt, nghi thức đấu vật tượng trưng…thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, ước vọng của nhân dân về cuộc sống thanh bình no đủ, hạnh phúc. 

  • Đến với Lễ hội Đình, nghè, chùa Lạc Thanh, du khách sẽ được hoà mình vào lễ hội tín ngưỡng dân gian, tìm hiểu lịch sử vùng đất cổ Lạc Thanh xưa và nét sinh hoạt văn hoá của nhân dân địa phương hôm nay.

    * Lễ hội Đình Đền Công

    Lễ hội Đình Đền Công được tổ chức vào ngày 14, 15 tháng Giêng hàng năm. Đình mở hội khai xuân tế lễ đầu năm cầu mong cho một năm mới nhiều tài lộc, bình an, may mắn.
  • KHU DI TÍCH DANH THẮNG YÊN TỬ

    NON THIÊNG YÊN TỬ  

      Khu di tích Yên Tử trải dài gần 20km thuộc địa bàn phường Phương Đông và xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Năm 1974, Yên Tử được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc gia và năm 2012 được Nhà nước công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.

    Yên Tử là một "địa linh" được ngợi ca là “phúc địa” ở vùng Đông Bắc nước ta. Nơi đây có cảnh trí thiên nhiên kỳ vĩ, ẩn chứa nền văn hóa của dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

    Hơn 700 năm qua, danh sơn Yên Tử gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp phi thường của Đức Hoàng Đế anh hùng Trần Nhân Tông (1258 - 1308). Sau hai lần lãnh đạo nhân dân Đại Việt kháng chiến chống giặc Nguyên Mông thắng lợi năm 1285 và năm 1288, Ngài đã truyền ngôi cho con, từ bỏ lầu son điện ngọc xuất gia về Yên Tử tu hành (10/1299) với pháp danh Hương Vân Đại Đầu Đà, đạo hiệu Trúc Lâm Đại Sĩ và đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành đạo Phật của quốc gia Đại Việt và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo Việt Nam sau này.




  • RỪNG QUỐC GIA YÊN TỬ

    Rừng quốc gia Yên Tử có tổng diện tích 2.783ha, ở tọa độ 21o05' đến 29o09 vĩ độ Bắc, từ 106o043' kinh độ Đông, có ranh giới phía Bắc giáp khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp khu vực Than Thùng xã Thượng Yên Công; phía Tây giáp xã Tràng Lương, xã Hồng Thái Đông, huyện Đông Triều; phía Nam là phường Phương Đông, thành phố Uông Bí.

    Hệ thực vật có 830 loài, trong đó có 38 loài cây được ghi vào sách đỏ Việt Nam là ngành dương xỉ, ngành hạt trần và ngành hạt kín như: Gụ lau, Nhọc lá dài, Thông tre lá ngắn, Tùng La Hán, Giổi xanh, Vàng tâm, Giổi đỏ, Sến mật, Đinh thối, Lim xanh, Hồng tùng, Vù hương, Lát hoa...cùng các loài cây có giá trị của di tích gắn bó với Phật hoàng Trần Nhân Tông và các đệ tử của Ngài trong thời gian tu hành ở Yên Tử đó là: 242 cây Tùng cổ còn lại được trồng cách đây


  • hơn 700 năm, tập trung tại Đường Tùng từ Chùa Giải Oan lên Chùa Hoa Yên, vườn Tùng khu Am Dược, đường Tùng từ chùa Hoa Yên sang Thác Vàng, Thác Bạc và phân bổ rải rác tại các Chùa như: Vân Tiêu, Bảo Sái, Hòn Ngọc, Tháp Tổ cùng với rừng Trúc xanh bạt ngàn, những cây mai vàng nở hoa rực rỡ vào mùa xuân và 13 cây Đại cổ được trồng ở Chùa Hoa Yên, Vườn Tháp Huệ Quang, Chùa Giải Oan... Ngoài ra, còn có một số loài cây dược liệu quý như: Sa nhân, lá khôi tía, Ba kích, Trầu tiên, Bẩy lá một hoa, Hoằng đằng...gắn liền với Am Dược và các loài cây cho hoa muôn sắc màu, tán lá sum xuê, tươi tốt tôn vẻ đẹp của núi rừng Yên Tử.

  • THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ

              Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông sáng lập. Đó là một dòng thiền có sự dung hợp và kế thừa chọn lọc những tinh hoa của ba dòng thiền: Tỳ Ni Đa Lưu Chi;Vô Ngôn Thông và Thảo Đường.

              Dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử trải qua 23 tổ truyền thừa, được bắt đầu từ thiền sư Hiện Quang, kế đến là thiền sư Viên Chứng, Đại Đăng, Tiêu Dao, Huệ Tuệ. Đến Vua Trần Nhân Tông là người truyền đăng thứ 6 của dòng thiền này. Nhưng Phật Hoàng Trần Nhân Tông là người có công trong việc thống nhất các thiền phái đã có để xây dựng một thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm yếu tố Phật giáo của người Việt, mang tinh thần nhập thế mạnh mẽ và tích cực, hòa vào đời để tu hành. Xuất gia hay tại gia đều với mục đích làm cho tốt đời, đẹp đạo, Quốc thái dân an...

              Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ kế thừa tinh hoa của đạo phật Ấn Độ và thiền tông Trung Hoa mà còn dung hợp được tinh thần tích cực của Tam giáo, hòa đồng cùng với tín ngưỡng văn hóa dân gian của người Việt.

              Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nhấn mạnh: Phật ở trong tâm của mỗi con người chúng ta, không phải tìm kiếm ở bên ngoài, phải có sự soi sáng lại chính mình thì sẽ thấy mình là Phật "Vạn pháp chi tâm tức tâm Phật''.

  • CHÙA TRÌNH

               Chùa Trình, tên gọi khác là Chùa Bí Thượng vì Chùa toạ lạc trên một sườn đồi ở làng Bí Thượng thuộc Tổng Bí Giàng, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên xưa, nay là khu Bí Thượng thuộc Phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chùa Bí Thượng xưa được xây dựng vào thời Hậu Lê. Chùa hướng Tây Nam, quy mô kiến trúc kiểu chữ Nhất (-), với diện tích gần 20m 2 .

              Đến đầu thế kỷ XIX chùa được dựng lại với kiến trúc chữ Nhất trên nền chùa cũ nhưng quy mô nhỏ hơn. Đầu thế kỷ XX, Chùa bị hoả hoạn, có bà Phật tử họ Bùi đã phát tâm công đức phục dựng lại ngôi chùa theo kiến trúc hình chữ Đinh rộng hơn chùa cũ với kiến trúc 03 gian tiền đường, một gian hậu cung. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp chùa bị phá huỷ. Vào năm 1993 bằng nguồn công đức của nhân dân trong vùng, chùa được xây dựng lại với kiểu kiến trúc nhà cấp 4, có 03 gian. Đến năm 1999 chùa được tu sửa khang trang.

              Năm 2006 bằng nguồn đầu tư của Nhà nước và nguồn công đức của du khách thập phương  chùa Bí Thượng được xây dựng và mở rộng với quy mô to lớn như hiện nay. Chùa Bí Thượng trở thành ngôi chùa Trình của cả hệ thống chùa tháp Yên Tử.
    Là Trụ sở của Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh


  • CHÙA SUỐI TẮM

    Chùa Suối Tắm toạ lạc ở thế đất tựa đầu Rùa thiêng (linh quy) bên sườn dốc cửa Ngăn thuộc dãy núi Kim Cương. Dân gian  truyền tụng nơi đây là cửa rừng tiếp giáp với vùng đồng bằng ven sông Bạch Đằng, mỗi khi người dân vào rừng săn bắn, lấy củi khi qua đây thường xuống tắm mát ở dòng suối này, người dân liền đặt tên gọi là Suối Tắm. Suối Tắm theo tương truyền hơn 700 năm trước, khi đến Yên Tử tu hành có lần Vua Trần Nhân Tông và đệ tử Bảo Sái đã xuống tắm mát ở suối này có ỹ nghĩa như gột sạch bụi trần trước khi vào cõi Phật, Vì vậy mà chùa mang tên là Suối Tắm. Nơi đây được gọi là cửa rừng, là nơi ngăn cách giữa cõi Phật với trần tục từ khi núi Yên Tử có các thiền sư tu hành, lập chùa thờ Phật.


  • CHÙA CẦM THỰC

    Chùa Cầm Thực toạ lạc trên một đỉnh núi tròn như “mâm xôi”. Tương truyền hơn 700 năm trước vua Trần Nhân Tông cùng đệ tử Bảo Sái sau khi xuống Suối Tắm gột sạch bụi trần tiếp tục lộ trình vào Yên Tử. Trời đã sang trưa, Bảo Sái mở túi lấy cơm chay mời thầy dùng bữa mới sực nhớ xuất ăn của hai thầy trò đã bố thí cho người hành khất ở Cửa Ngăn. Vua Trần vui vẻ cùng Bảo Sái uống nước suối thay cơm rồi nghỉ trưa trên núi này. Để ghi lại sự tích trên người xưa dựng chùa đặt tên là Cầm Thực (có nghĩa là “ không ăn”) như thể khắc ghi đức hạnh bố thí cứu độ chúng sinh của vua Trần Nhân Tông và đệ tử Bảo Sái.


  • CHÙA LÂN- THIỀN VIỆN TRÚC LÂM YÊN TỬ

              Chùa Lân hay còn gọi Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. Chùa toạ lạc trên một quả núi giống hình con Kỳ Lân nằm phủ phục, nên chùa được đặt tên theo dáng núi.

              Chùa Lân là ngôi chùa có vị trí ở cửa ngõ vào khu trung tâm chùa tháp ở Yên Tử và là ngôi chùa Trình thời Lý- Trần - Lê. Hệ thống kiến trúc Chùa Lân ngày nay do Hoà Thượng Thích Thanh Từ cùng phật tử thập phương công đức xây dựng với quy mô rộng lớn, khang trang. Chính Điện được khởi công xây dựng vào năm 2002 trên nền ngôi chùa cũ thời Trần. Hiện nay phía cửa bước vào Chính Điện còn trưng bày dấu tích nền móng chùa thời Trần.

               Chùa Lân là ngôi chùa lớn với quy mô kiến trúc nguy nga nhất trong hệ thống chùa tháp ở Yên Tử hiện nay đươc quy hoạch trên diện tích 125.198m2.





  • CHÙA GIẢI OAN

              Chùa Giải Oan được xây dựng dưới thời Pháp Loa – vị tổ thứ 2 của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chùa ngày nay được xây dựng trên nền móng  cũ đã trải qua nhiều lần trùng tu.

              Năm 1994, ni sư Chân Đức – một việt kiều ở Canada đã phối hợp với Ban quản lý Yên Tử và sư thày Thích Diệu Như - trụ trì chùa Giải Oan hưng công xây dựng.

              Năm 2010, nhà thờ Tổ được khởi công xây dựng phía trái chùa Giải Oan. Kiến trúc hình chữ Nhất, bên trong bài trí thờ Tam Tổ Trúc Lâm, Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Tổ chùa.

              Điều đặc biệt bên cạnh chùa Giải Oan là điện thờ thân mẫu (Đức mẫu Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu – Trần Thị Thiều) và Quốc trương (Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

  • AM LÒ RÈN- ĐƯỜNG TÙNG- VƯỜN THÁP- HÒN NGỌC

    Dấu tích Am Lò Rèn nằm ở phía bên trái trên tuyến đường đi bộ từ Chùa Giải Oan lên khoảng 800m, là nơi rèn đúc các công cụ như cuốc, xẻng, dao, kéo và đồ dùng khác phục vụ cho công việc lao động sản xuất và đời sống của các Thiền sư, nhà Chùa thuở ấy, như trồng hoa, luyện chế thuốc... Từ Am Lò Rèn đi lên, đường dốc cao dần khoảng 200m là đường Tùng cổ trên 700 năm tuổi, được trồng ở hai bên đường đi, với số lượng còn 47 cây, thân to cao rắn chắc, nhuộm màu phong sương cùng thời gian, đứng sừng sững, trầm mặc giữa núi rừng hùng vĩ, cành lá sum xuê, xanh ngắt tỏa ra linh khí cõi thiền, rễ Tùng cổ kính ghi dấu thời gian đan xen để nâng bước chân du khách tiếp tục thượng sơn lễ Phật, vãng cảnh non thiêng. Theo thống kê, hiện nay ở Yên Tử còn 242 cây Tùng có độ tuổi trên 700 năm.

    Hòn Ngọc nằm phía trên đường Tùng, ở phía trước Vườn tháp Huệ Quang. Theo thuật phong thủy Vườn tháp Huệ Quang tọa lạc ở đầu Rồng. Rồng nhả ngọc châu, chính là một quả núi tròn ở phía trước gọi là Hòn Ngọc. Vườn Tháp Hòn Ngọc ở độ cao hơn 400m (so với mặt nước biển). Có các tháp, mộ của Tăng, Ni tu hành và viên tịch tại Yên Tử thời Hậu Lê đến đầu thời Nguyễn. Nơi đây, có những cây Tùng cổ, tạo nên vẻ đẹp tôn kính trầm mặc. Vườn tháp Hòn Ngọc hiện còn 8 ngôi tháp và có 3 ngôi khá nguyên vẹn. Đó là tháp, mộ của các thiền sư: Giác Liễu, Diệu Tường, Thích An An tu ở chùa Hoa Yên vào thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).


  • HUỆ QUANG KIM THÁP - THÁP TỔ

                 Vườn Tháp Huệ Quang nằm ở độ cao 500m so với mực nước biển, là nơi lưu giữ ngọc cốt của các nhà sư đã từng tu hành tại Yên Tử. Toàn bộ Vườn tháp hiện nay còn lưu giữ 97 ngôi tháp mộ. Mỗi một tháp mộ đều có kích thước và độ cao thấp khác nhau, điều đó thể hiện vị trí, chức sắc của các nhà sư tu hành tại nơi đây.

              Tháp Tổ nằm ở vị trí trung tâm của vườn tháp, là nơi lưu giữ xá lợi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tháp do Vua Trần Anh Tông cùng Triều Đình và Đệ Nhị Tổ Pháp Loa cùng các tăng sĩ thiền phái Trúc Lâm xây dựng vào năm Kỷ Dậu, niên hiệu Long Hưng thứ 17 đời Vua Trần Anh Tông (1309), sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn (1308).

              Khu Vườn tháp Tổ là nơi tụ vương linh khí của long mạch Yên Tử, phía sau Tháp Tổ là hai Mắt Rồng tụ thủy, lưu giữ khí thiêng sông núi, ở giữa hai hàng tháp mộ là đường lát gạch hoa cúc thời Trần tượng trưng con đường giác đạo, với ý nghĩa tôn kính anh linh Phật Hoàng Trần Nhân Tông thượng đường giảng kinh truyền giáo ở Chùa Vân Yên như lúc sinh thời.

  • CHÙA HOA YÊN

     

    Chùa Hoa Yên (Trùng tu năm 2002)

     Chùa Hoa Yên ở độ cao 535m (so với mặt nước biển), ngôi Chùa Trung tâm của hệ thống Chùa, tháp Khu di tích lịch sử- danh thắng Yên Tử. Chùa Hoa Yên còn gọi là Chùa Cả, Chùa Chính, Chùa Yên Tử. Nơi đây, thế đất tựa đồng Rồng. Hơn 700 năm trước, Chùa Hoa Yên chỉ là một am thất nhỏ, có tên là Vân Yên, là nơi Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông tu hành và giảng đạo. Đến thời Đệ Nhị Tổ Pháp Loa, Chùa được xây dựng nguy nga, tráng lệ.

    "Tháp biếc trăm tầng cao ngất ngất

    Lầu son mấy nóc rộng thênh thênh"

  •           Năm 1317, Đệ Tam Tổ Huyền Quang được Đệ Nhị Tổ Pháp Loa truyền y - bát, Tâm Kệ của Điều Ngự và về trụ trì chùa Vân Yên. Hơn một trăm năm sau, Vua Lê Thánh Tông về đây vãng cảnh Chùa. Thấy cảnh sắc tốt tươi, muôn hoa hoa đua nở, nhà Vua đã đổi tên Chùa Vân Yên thành Chùa Hoa Yên.

              Chùa xưa  có quy mô lo lớn, có lầu trống, lầu chuông, viện Phù Đồ, nhà dưỡng tăng, nhà giảng đạo...Chùa đã được trùng tu nhiều lần. năm 2002, bằng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và công đức của thập phương, Chùa Hoa Yên đã được xây dựng lại trên nền Chùa thời Trần, có tiền đường, hậu cung, có tả vu làu chuông, hữu vu lầu trống, phía sau hậu cung là nhà thờ Tổ tạo nên không gian kiến trúc kiểu "Nội công ngoại quốc".

              Từ Chùa Hoa Yên đi về bên trái khoáng 200m tới thác Ngự Dội, Am Thiền Định, đường Tùng, vách núi Thạch Thảo rồi tới Thác Vàng. Đi về bên phải khoảng 200m tới Chùa Một Mái thượng sơn lên Chùa Bảo Sái, Chùa Vân Tiêu rồi lên An Kỳ Sinh, Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông và tới Chùa Đồng hoặc đi theo sườn núi qua nhà ga cáp treo 3 để tới Am Diêm, Am Hoa, Thác Bạc và Am Dược, thăm những dấu tính của Thiền phái Trúc Lâm và thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng Yên Tử.

  • CHÙA MỘT MÁI

              Thời Trần, Chùa Một Mái vốn là Am Ly Trần, cảnh am tĩnh lặng, cách xa nơi trần tục. Vua Trần Nhân Tông thường sang đây đọc sách, soạn kinh. Sau khi Đức Vua Trần hiển Phật, người sau lập Chùa ở Am này.

             Chùa cũ có nhiều tên gọi khác nhau: Vào thời Lê, chùa có tên là "Chùa Bồ Đà" vì chùa thờ Phật, Bồ Tát luôn đem lòng từ bi cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh.

              Gọi là Bán Thiên Tự hay Chùa Bán Mái, vì chùa tọa lạc ở lưng chừng trời, một nửa ngôi chùa ở ngoài trời, còn một nửa trong hang động. Gọi là "Thanh Long Động" vì chùa ở trong động của dãy núi Thanh Long nằm ở phía Đông chùa Hoa Yên.

              Ở vị trí địa thế độc đáo, không gian hẹp, đường vào chùa men theo vách đá chênh vênh, kiến trúc chùa bốn gian đơn giản, hai hồi chùa là vách đá, tường bao phía trước là những tấm gỗ ghép lại và có hai cửa sổ chắn song hướng Nam. Kích thước Chùa: Chiều dài 9,6m, chiều sâu 1,7m, chiều cao 2,3m và bán mái là 0,9m.

  • AM DIÊM, AM HOA, AM DƯỢC, THÁC BẠC

              Am Diêm, Am Dược, Am Hoa và Thác Bạc ở núi Thanh Long, phía Đông chùa Hoa Yên. Am Diêm, xưa kia dùng để dự trữ muối. Muối được chở từ miền xuôi lên nhập vào Am, phân phát cho các chùa trên núi cao.

              Am Hoa, là nơi trồng hoa để dâng lên cúng Phật, cũng là nơi tọa thiền của Thiền sư. Hiện nay các Am trên vẫn còn những dấu tính.

              Am Dược, còn có tên là Am Thuốc nằm ở trên sườn dãy núi Thanh Long (Rồng Xanh) ở phía Đông chùa Hoa Yên. Trước khi về Yên Tử Vua Trần Nhân Tông đã cho dựng Am này. Khi về Yên Tử tu hành Điều Ngự đến ở nơi đây. Núi rừng Yên Tử có rất nhiều thảo dược quý nên Điều Ngự đã cho các đệ tử, chúng tăng lấy thảo dược về luyện chế thuốc để cứu độ chúng sinh, chữa bệnh cho các tăng sĩ và người dân quanh vùng cũng như mỗi khi Điều Ngự đi giáo hóa khắp chốn thôn dã, thị thành mang theo các thuốc được luyện chế ở đây để chữa bệnh cho muôn dân.

              Thác Bạc là dòng suối từ dãy núi Thanh Long, chảy thành một dòng trắng bạc tạo nên cảnh sắc thiên nhiên kỳ vĩ.

  • THÁC NGỰ DỘI, AM THIỀN ĐỊNH, THÁC VÀNG

              Thác Ngự Dội, Am Thiền Định và Thác Vàng ở núi Bạch Hổ, phía Tây Chùa Hoa Yên.

              Am Thiền Định nằm cách chùa Hoa yên khoảng 500m về phía Tây. Ngày nay, dấu vết Am Thiền Định nằm bên cạnh con đường dẫn ra thác Ngự Dội và Thác Vàng, cách Thác Ngự Dội khoảng 20m, cách Thác Vàng 180m.

              Thác Ngự Dội, là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông thường ra tắm gội, sau đó Ngài lên Am Thiền Định kế bên để tọa thiền.

              Thác Vàng bắt nguồn từ dãy núi Bạch Hổ tạo thành dòng chảy ánh kim gọi là Khê Hổ cùng với Thác Bạc tuôn chảy, vươn dài xuôi về phía Nam, ôm lấy thung lũng Giải Oan tạo thành một minh đường tụ thủy lưu giữ khí thiêng.

  • CHÙA BẢO SÁI

     

    Chùa Bảo Sái

     Chùa mang tên vị đệ tử thân tín nhất của Vua Trần đã từng tu hành tại đây. Chùa Bảo Sái ở độ cao trên 700 m so với mực nước biển. Thời kỳ Vua Trần tu hành, nơi đây chỉ có am trong động. Am có tên là Ngộ Ngữ Viện, ở sau chùa Bảo Sái hiện nay là nơi biên soạn, lưu trữ kinh văn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và thiền sư Bảo Sái được vua Trần giao cho việc biên tập và ấn tống kinh văn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử rồi chuyển xuống các Chùa để truyền giảng thiền Tông cho các tăng ni và phật tử trong cả nước Đại Việt. Trên vách đá Ngộ Ngữ Viện nay vẫn còn câu đối:

                                 “Thạch hoá Trúc Lâm lưu điển tích

                                 Sơn cao Bảo toà kết lâu đài”

              Dịch nghĩa: “Nơi đá núi sáng lập phái Trúc Lâm, điển tích còn lưu lại.

                                   Trên non cao toà báu Thiền môn đã kết thành lâu đài”

  • CHÙA VÂN TIÊU

     

    Chùa Vân Tiêu

    Vân Tiêu ở đây tức là tầng mây, Chùa có ý nghĩa là Chùa trong tầng mây. Chùa tọa lạc ở phía tây dãy núi Yên Tử. Dãy núi như tường thành chắn ngang luồng gió biển thổi vào, hơi nước ngưng đọng lại thành tầng tầng, lớp lớp mây bao phủ, nhè nhẹ trôi. Ngôi Chùa lúc ẩn, lúc hiện trong những tầng mây ấy.

    Xưa kia Chùa chỉ là am thất nhỏ, gọi tên là am Tử Tiêu. Sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông hiển phật, đệ nhị tổ Pháp Loa đã cho xây dựng nơi đây thành chùa lớn.  Năm 2001, trung tâm Unesco nghiên cứu, ứng dụng phật học Việt Nam đã vận động phật tử công đức xây dựng chùa.

  • Trước cửa Chùa Vân Tiêu có Vườn tháp vọng tiên cung (nghĩa là nhìn thấu suốt tới tiên cung). Cụm tháp gồm 06 ngọn tháp xây bằng đá và gạch. Ngọn tháp chính giữa cao 09 tầng gọi là cửu trùng đài, xây vào thời Nguyễn, được xây bằng đá núi, hình lăng trụ bát giác, tám mặt tháp tượng trưng cho bát chính đạo. Vườn tháp "Vọng Tiên Cung" giống như Hòn ngọc quý cùng hai cây Tùng tươi tốt cành lá sum xuê đứng ở hai bên nổi bật trên nên xanh biếc của núi rừng Yên Tử. Đây không phải là tháp mộ nhà sư, mà chỉ là một ngôi tháp thờ phụng chung cho tất cả các chư liệt, tiền tổ. 05 ngôi tháp còn lại, tất cả đều nhỏ bé, khiêm cung, đó là 5 tháp mộ của các thiền sư đức cao, đạo trọng, tu hành ở Vân Tiêu và viên tịch ở đây.

  • TƯỢNG AN KỲ SINH


    Tượng An Kỳ Sinh

    Truyền thuyết kể lại rằng: Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, ở phương Bắc có một đạo sĩ tên là An Kỳ Sinh đã đến đây tu pháp Đạo Tiên. Ngài hái lượm cỏ cây, thảo dược, luyện đan sa, thần sa thành thuốc trường sinh và ban pháp dược chữa bệnh cứu người.

    Người đời tỏ lòng tôn kính gọi ông là An Tử (nghĩa là thày An), và gọi núi này là An Tử Sơn (nghĩa là núi thày An). Sau này, để tránh gọi tên húy của Ngài, dân gian đổi tên gọi núi An Tử thành Yên Tử và dựng tượng Ngài để thờ cúng. Tượng An Kỳ Sinh là một tảng đá tự nhiên, trông giống hình đạo sỹ đứng chắp tay cung kính quay về Tây phương, áo dài thướt tha. Tượng cao 2,2m. Thân tượng có tạc chữ hán dã bị mờ nét.

     












  • BẢO TƯỢNG PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

                 Để tôn vinh những công đức của Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông đối với dân tộc và đạo pháp. Năm 2009, Ban trị sự giáo hội phật giáo tỉnh Quảng Ninh là chủ đầu tư đã tổ chức lễ khởi công đúc Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông

              Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được đúc liền khối bằng đồng nguyên chất. Tượng đúc ngồi trên bệ được làm bằng bê tông cốt thép ốp đá điêu khắc cao 2,7 mét, phần đài sen và tượng  cao 9,9 mét. Tổng thể tượng cao 12,6m, trọng lượng nặng 138 tấn. Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được dựng trên khu đất rộng 2.200 m2, có độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển.

              Ngày 3/12/2013 (tức ngày 1 tháng 1 năm Quý Tỵ),  Đại lễ tưởng niệm 705 năm ngày Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, công trình tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã được khánh thành và làm lễ khai quang an vị tượng.

  • CỔNG TRỜI, BIA PHẬT

    Do quá trình biến động địa chất,  bãi đá Chùa Đồng trông như hàng nghìn “linh quy” (Rùa thiêng) chầu về đỉnh thiêng Yên Tử. Trong đá trầm tích biển có những con ốc, con sò biển hoá thạch và có những thực vật biển sống ở đây như cây sú, cây vẹt. Phía trước dưới cổng trời có một phiến đá trầm tích cát sỏi biển, mỏng, cao hơn 5m, bề rộng khoảng 2m. Mặt đá chính diện giống như hình chiếc oản dâng lên cúng Phật. Phiến đá đó gọi là “Bia Phật”. Mặt trước của bia được tạc một hàng chữ Hán lớn theo chiều dọc, ba chữ trên nay đã mờ, chỉ còn lại một chữ cuối cùng khá rõ nét nằm gọn trong vòng tròn, đó là chữ “Phật”. Phía dưới chữ Phật có một hàng ngang gồm 04 chữ Hán “Tứ Tự Hồng Danh”.

  • CHÙA ĐỒNG

        Chùa Đồng - Tên chữ là Thiên Trúc Tự, toạ lạc trên đỉnh Non thiêng Yên Tử ở độ cao 1.068m so với mặt nước biển. Nơi đây có không gian thiên nhiên bao la hùng vĩ, quanh năm mây trắng, sương mù che phủ đan xen lúc nắng, lúc mưa, khí hậu ẩm ướt. Những Cây Trúc, cây Sú, cây Vẹt,...mọc thành rừng, trên những triền núi đá còn dấu tích những vỏ Sò, vỏ Ốc. Tam Tổ Trúc Lâm và các Thiền sư thường ngồi thiền để "Thân hoà đồng trụ, giới hoà đồng tu".

      Chùa Đồng được trùng tu năm 2006 và khánh thành ngày 12 tháng 12 năm Bính Tuất (30/01/2007), được đúc bằng đồng nguyên chất nặng trên 70 tấn, chiều dài 4,6m, chiều rộng 3,6m, chiều cao 3,35m, hình dáng Chùa như một Đài sen, trong Chùa thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tổ Trúc Lâm. Đây là một công trình kiến trúc văn hóa Phật giáo độc đáo và lớn nhất Đông Nam Á được làm hoàn toàn bằng chất liệu đồng.


  • Thành phố Uông Bí nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh, có Quốc lộ 18A, quốc lộ 10, đường thuỷ, đường sắt quốc gia chạy qua, là cửa ngõ của tỉnh Quảng Ninh nối liền Thủ đô Hà Nội, Thành phố cảng Hải Phòng, các tỉnh miền Duyên hải Bắc Bộ với Thành phố Hạ Long.

    Trên địa bàn hiện có 27 Di tích lịch sử văn hóa gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của Dân tộc; 05 Di tích đã được xếp hạng, trong đó có 02 Di tích xếp hạng cấp Quốc gia; Di tích Yên Tử được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá đặc biệt của Quốc gia, là trung tâm Phật giáo của cả nước, khu du lịch có giá trị về văn hoá lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, có mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết lâu dài trong lịch sử với quần thể di tích nhà Trần của Đông Triều, Quảng Yên và các di tích nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.


  • Trên địa bàn hiện có nhiều Đình chùa, là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng hiện còn lưu giữ được nhiều nét kiến trúc có giá trị lịch sử; các di sản văn hóa phi vật thể khá phong phú như hệ thống văn bia đồ sộ tại Yên Tử và các Di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn. Các lễ hội mang màu sắc của Phật giáo như Hội xuân Yên Tử; Hội chùa Ba Vàng hoà đồng với các lễ hội mang tín ngưỡng dân gian đầu xuân đậm nét văn hoá làng quê Việt Nam như Hội Đình Lạc Thanh; Hội Đền Hang Son; hội Đình Đền Công... được tổ chức hàng năm, tạo nên những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, Uông Bí còn được thiên nhiên ban tặng nhiều cảnh quan như Hang son, Hồ Yên Trung, Thác Lựng xanh... có thể trở thành các sản phẩm du lịch đặc sắc của địa phương. Hàng năm, thành phố Uông Bí đón hơn 2 triệu lượt khách về thăm.


  •